This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Viêm amidan giải đáp của chuyên gia

Biểu hiện viêm amidan

Viêm amidan có 3 thể gồm viêm amidan cấp tính, mạn tính hoặc quá phát. Với mỗi thể viêm amidan có các triệu chứng khác nhau. viêm amidan cấp tính bệnh nhân có khởi phát đột ngột, thường sốt 39-400C, kèm theo nổi hạch, nuốt rất đau.

Viêm amidan mạn tính thường tái phát, có biểu hiện sốt, thỉnh thoảng sốt tái đi tái lại, hơi thở hôi do có ổ nhiễm trùng, bệnh nhân khạc ra đờm là do ổ viêm amidan xuất tiết.

Viêm amidan quá phát tức là amidan sưng to thường xuyên. Ở người viêm amidan quá phát, bệnh nhân thở khò khè, người lớn ngủ ngáy, trẻ con có thể gặp hội chứng ngừng thở khi ngủ. Khi ngủ, amidan chèn vào đường thở gây hội chứng ngừng thở khi ngủ.

Cần khám bác sĩ chuyên khoa để được chỉ định và tư vấn đúng.

Cần khám bác sĩ chuyên khoa để được chỉ định và tư vấn đúng.

Chỉ định cắt amidan khi nào?

Amidan vốn có tác dụng giúp cơ thể chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, nhưng khi tổ chức này bị viêm đi viêm lại nhiều lần dẫn tới các đợt viêm mũi họng. Viêm họng mạn tính hay viêm amidan tái phát nhiều sẽ dẫn tới các biến chứng như viêm khớp, viêm cầu thận, viêm màng tim, thậm chí là ung thư vòm họng. Theo ThS.BS. Lê Anh Tuấn - Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp BV Tai mũi họng TW, nếu viêm amidan nhiều lần gây ảnh hưởng tới đường thở, viêm amidan dẫn tới biến chứng viêm tai, viêm phế quản, viêm mũi xoang... cần cắt amidan. Ở người lớn, viêm amidan mạn tính, các hốc gây viêm kéo dài cũng có chỉ định cắt. Người bệnh cần đi khám chuyên khoa và tư vấn bác sĩ để có chỉ định đúng. Cắt amidan đúng chỉ định có nghĩa chúng ta đã loại bỏ một ổ nhiễm khuẩn trong họng và sau khi việc đó diễn ra thì người bệnh sẽ có sức khỏe tốt hơn, tần suất viêm đường hô hấp giảm rất nhiều.

Tuy nhiên, người cao tuổi hoặc người có bệnh lý nội khoa nguy hiểm đến quá trình gây mê trong lúc phẫu thuật không nên cắt amidan. Trong trường hợp này, phải sử dụng các biện pháp khác như dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ hoặc sử dụng tia laser để điều trị các hốc amidan đó. Đây là những phương pháp nhẹ nhàng hơn, có thể giảm thiểu những nguy cơ của gây mê khi cắt amidan.

ThS.BS. Lê Anh Tuấn cũng bổ sung rằng, khi nói đến cắt amidan, đó là amidan khẩu cái, hai khối lớn nhất trong họng. Trong họng còn có các vòng Waldeyer và các tổ chức tương tự như amidan, ở phía trên gọi là VA, nhưng phía dưới còn có amidan đáy lưỡi. Thực tế, cắt amidan là loại bỏ toàn bộ amidan khẩu cái. Tuy nhiên, cũng có trường hợp vẫn có hiện tượng viêm họng và có thể viêm hoặc tái phát amidan đáy lưỡi. Trong những trường hợp đó, khi đi khám, bác sĩ chẩn đoán vẫn có thể đưa ra chẩn đoán là viêm amidan đáy lưỡi, viêm họng. Viêm amidan đáy lưỡi thường không có can thiệp phẫu thuật.

Sau cắt amidan nên làm gì?

Nhiều người lo lắng cắt amidan có thể ảnh hưởng tới giọng nói. Theo các bác sĩ, amidan không phải là cơ quan phát âm nên không gây ảnh hưởng tới giọng nói, không gây ra hiện tượng mất tiếng hay khàn tiếng. Tuy nhiên, có trường hợp amidan quá to, bệnh nhân có tình trạng nói mà miệng như ngậm hạt thị, sau khi cắt amidan, tiếng nói trở nên thanh thoát hơn. Sau cắt amidan, bác sĩ không chỉ định bệnh nhân ngừng nói, bệnh nhân có thể nói ngay sau khi cắt amidan. Tuy nhiên, người bệnh vì đau quá nên ngại nói hoặc nói nhỏ.

TTƯT.ThS.BS. Lê Thị Hải - nguyên Giám đốc Trung tâm Khám tư vấn dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng Quốc gia tư vấn: Đối với bệnh nhân cắt amidan, điều đáng quan tâm nhất là chế độ ăn uống. Sau vài giờ đầu hay những ngày đầu sau cắt amidan, người bệnh nên ăn thức ăn lỏng, mềm và phải ăn đồ lạnh, không ăn đồ nóng. Đầu tiên nên uống sữa và uống sữa lạnh. Rồi uống nước trái cây để trong tủ lạnh. Khoảng vài giờ sau, nếu bệnh nhân không có biến chứng chảy máu thì có thể ăn nhẹ, ăn cháo. Tốt nhất, ăn các loại cháo, súp nấu lên và để nguội. Chế độ ăn cháo, súp, uống sữa, uống nước trái cây theo cách này cần được thực hiện trong vòng ít nhất một tuần. Sau đó, vết thương đã lành, có thể dần dần ăn cơm nấu hơi nát, thức ăn xay nhỏ, nấu nhừ... Khoảng 10-15 ngày sau, khi bệnh nhân đã hoàn toàn bình phục mới có thể ăn uống như bình thường được. Để tăng sức đề kháng nên chọn thực phẩm giàu vitamin A, C, muối khoáng như cam, chanh, khoai tây, cà rốt,... để bệnh nhân nhanh hồi phục.

Viêm amidan quá phát.

Viêm amidan quá phát.

Cách phòng tránh viêm amidan, tái phát viêm amidan

PGS.TS. Phan Thu Phương - Phó Giám đốc Trung tâm Hô hấp, Bệnh viện Bạch Mai, Phó trưởng bộ môn Nội tổng hợp, ĐH Y Hà Nội cho biết, viêm họng trong đó có viêm amidan có rất nhiều nguyên nhân như virut, vi khuẩn, khói bụi, ô nhiễm môi trường... Viêm amidan là tình trạng viêm ở vùng amidan. Khi amidan sưng lên chứng tỏ có vi khuẩn xâm nhập. Khi thời tiết chuyển mùa, nóng lạnh thất thường là điều kiện thuận lợi để vi khuẩn, virut sinh sôi, nảy nở, xuất hiện các loại virut mới. Nếu trẻ nhỏ, người già, người suy giảm miễn dịch rất dễ mắc viêm họng, viêm amidan. Viêm họng, viêm amidan còn liên quan tới vấn đề vệ sinh, do vệ sinh không đúng cách. Trẻ em hay cho tay vào miệng khiến virut, vi khuẩn dễ xâm nhập. Amidan có cấu tạo nhiều hốc, khi ăn xong chúng ta không vệ sinh sạch sẽ là điều kiện cho vi khuẩn sinh sôi, phát triển. Việc hút thuốc thụ động cũng là nguyên nhân làm chúng ta bị bệnh, nếu trong gia đình có người hút thuốc cũng dễ khiến cho người già, trẻ em bị hút thuốc thụ động dễ bị nhiễm trùng đường hô hấp trên.

ThS.BS. Lê Thị Hải cho biết, thói quen thích ăn nóng, ăn cay của người Việt không tốt cho họng. Ăn quá nóng, quá cay là một trong những nguyên nhân gây ra viêm họng mạn tính. Sở thích ăn kem, uống nước đá cũng là nguy cơ gây viêm họng, viêm amidan... Nhiều nghiên cứu còn cho thấy, ăn mặn là một trong những nguyên nhân gây viêm họng mạn.

Khi bị viêm họng, viêm amidan, cảm giác đầu tiên là họng đau, khó nuốt, khó ăn. Về chế độ dinh dưỡng, cần uống đủ nước, nước ấm giúp cho dịch tiết (đờm) loãng ra để có thể tống xuất được đờm ra ngoài. Uống đủ nước cũng làm cho họng dễ chịu hơn. Khi bị viêm amidan cấp, họng rất đau và nuốt khó do vậy thức ăn phải lỏng, mềm và dễ nuốt. Nếu các cháu bé sơ sinh thì bú mẹ, lớn hơn một chút thì uống sữa, ăn cháo, ăn súp. Và ngay cả người lớn cũng vậy, khi mà đau họng như thế thì không thể ăn được cơm, đồ cứng, đồ chiên xào rán thì không nên ăn. Ngay cả đồ khô cứng quá như bánh quy, hạt lạc cũng không nên ăn. Thức ăn tốt nhất là súp, cháo, sữa. Và đặc biệt, không nên nấu thức ăn cay và nóng quá hay mặn quá, vì sẽ làm tổn thương niêm mạc họng, làm cho bệnh không những không khỏi mà còn tiến triển nặng hơn lên khi biểu mô niêm mạc bị tổn thương. Những người có thói quen ăn cay, ăn nóng, ăn mặn quá dễ là nguyên nhân dẫn đến tổn thương niêm mạc họng, tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn, virut thâm nhập vào làm chúng ta bị viêm họng - BS. Lê Thị Hải khuyên.

L.M.T (ghi)


Hàm lượng vitamin D cao khi nhỏ có thể làm giảm nguy cơ tiểu đường

Hàm lượng vitamin D cao khi nhỏ có thể làm giảm nguy cơ tiểu đường

Tiểu đường týp 1 là một bệnh tự miễn mạn tính đang tăng 3-5% mỗi năm trên thế giới và xuất hiện khi hệ miễn dịch của cơ thể tự phá hủy các tế bào beta sản sinh insulin trong tuyến tụy. Các nhà nghiên cứu cho biết, vitamin D là loại vitamin có tác dụng bảo vệ chống lại tiểu đường vì nó điều chỉnh hệ thống miễn dịch và khả năng tự miễn.

Tác giả chính của nghiên cứu, Jill Norris từ Đại học Colorado - Anschutz cho biết: "Trong nhiều năm đã có nhiều tranh luận giữa các nhà khoa học về việc liệu vitamin D có làm giảm nguy cơ phát triển bệnh tự miễn và tiểu đường týp 1 hay không". Trong nghiên cứu, được xuất bản trên tạp chí Diabetes, nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm các yếu tố kích hoạt và các yếu tố bảo vệ ở 8.676 trẻ có nguy cơ tiểu đường týp 1 cao.

Họ đã xác định khả năng tự miễn ở 376 trẻ và so sánh chúng với 1.041 trẻ không có nguy cơ cao. Trong số những trẻ có nguy cơ di truyền mắc bệnh tiểu đường týp 1 cao, những trẻ có mức Vitamin D thấp trong thời kỳ sơ sinh và khi nhỏ đã phát triển khả năng tự miễn dịch cao so với những trẻ không phát triển khả năng tự miễn. Nghiên cứu cho thấy hàm lượng vitamin D cao hơn khi còn nhỏ có liên quan đáng kể với giảm nguy cơ phát triển bệnh tự miễn.

BS Thu Vân

(theo Univadis/THS)

Giáo sư dược học Italy thử nghiệm trị bệnh xương, ung thư từ cây Chay của Việt Nam

Cây chay thường sống ở các vùng núi cao của Việt Nam

Cây chay thường sống ở các vùng núi cao của Việt Nam

Tại hội thảo hợp tác KH&CN Việt Nam- Italia lần thứ nhất, có một cây thuốc quý của Việt Nam đã được nhắc tới, đó chính là cây chay, tên khoa học là Artocarpus, có tiềm năng trong điều trị bệnh xương khớp và một số bệnh ung thư. GS.Domenico Delfino, chuyên ngành dược học từ Trường Đại học Perugia của Italia đã tỏ ra rất bất ngờ khi ông đã đích thân thực hiện các thử nghiệm về loài cây này trên động vật ở Italia và cho thấy chân của chúng đã lành lại sau khi được dùng thuốc.

Cây chay dùng để chữa bệnh là các cây lớn 7-8m, sống ở vùng núi cao của Việt Nam. Có đến 5 loài Artocarpus, thường sống ở chùa chiền, miếu,… và cây chay thường được đồng bào dân tộc thiểu số trồng rộng rãi.

Tiềm năng chữa bệnh của cây chay (Artocarpus)

“Sau khi biết được thông tin về cây thuốc chữa bệnh này từ GS. Trần Văn Sung, chúng tôi đã có thử nghiệm. Sau khi chiết xuất từ cây đó, chúng tôi đã dùng thí nghiệm trên động vật, chân bị thương của chúng đã khỏe lại bình thường. Cây chay có tác dụng chữa bệnh viêm khớp. Cây chay chứa chất tonkinensis có tác dụng tốt chữa bệnh về khớp. Cây thực vật chứa thành phần cơ bản có thể được sử dụng chế tạo thuốc. ”, GS.Domenico Delfino chia sẻ.

Chiết xuất từ rễ và lá của cây chay (tên khoa học artocarpus) có các thành phần chống viêm khớp, trị bệnh bạch cầu tủy cấp tính, ung thư gan và ung thư dạ dày.

Chiết xuất cây thuốc và thảo mộc Việt Nam để điều trị bệnh tự miễn và ung thư

"Kết hợp y học cổ truyền và y học phương tây: Chiết xuất cây thuốc và thảo mộc Việt Nam để điều trị bệnh tự miễn và ung thư" là dự án hợp tác giữa Trường Đại học Perugia (Italia) với Viện KH&CN Việt Nam.

Cây chay trong kho tàng y học cổ truyền Việt Nam đã được các thầy lang và nhân dân dùng để chữa bệnh viêm khớp, đau lưng, phong thể thấp, viêm đại tràng,.... Theo GS. Domenico, các chiết xuất từ rễ và lá của cây chay có tác dụng chống viêm, giảm viêm khớp, có thể ức chế sự phát triển của tế bào T, tiêu diệt u lympho, trị bệnh bạch cầu tủy cấp tính, ung thư gan, ung thư dạ dày. Có thể chiết xuất các thành phần quý từ rễ và lá của loài cây này để điều chế thành thuốc.

cây chay chữa viêm khớp và một số bệnh ung thư

Nghiên cứu của Đại học Perugia (Italia) cho thấy chiết xuất từ cây chay có tiềm năng chữa viêm khớp và một số bệnh ung thư

GS. Trần Văn Sung, người từng lấy bằng tiến sĩ ở Trường ĐH Martin-Luter của Đức, hiện đang công tác tại Viện Hóa học, Viện KH&CN Việt Nam cho biết: “Trải qua 11 năm nghiên cứu hợp tác về loài cây này, chúng tôi đã công bố báo cáo đầu tiên về hoạt động liên quan tới loài cây này ở một số nước khác. Chúng tôi đã gửi báo cáo mẫu, cây mẫu cho GS. Domenico, kết quả nghiên cứu rất thú vị. Lần đầu tiên sau kết nối đó, chúng tôi có quan hệ thân mật, chặt chẽ hơn. Kết quả khá là hứa hẹn. GS. Domenico thậm chí còn muốn mở rộng nghiên cứu cho các loài cây YHCT khác của Việt Nam. Đây là dự án, ý tưởng đầy hứa hẹn. Đối với các nhà khoa học Việt Nam và Italia, đây là điểm then chốt cho quan hệ hợp tác của chúng ta. Những kiến thức, di sản về quan hệ hợp tác trong công nghệ hiện đại sẽ là cơ hội hợp tác cho các nhà khoa học.”

GS. Domenico Delfino và GS. Trần Văn Sung trình bày về tiềm năng chữa bệnh của cây chay

GS. Domenico Delfino và GS. Trần Văn Sung trình bày về tiềm năng chữa bệnh của cây chay tại Hội thảo KH&CN Việt Nam-Italia lần thứ nhất (21/11/2017).

Hợp tác Việt Nam-Italia: Kết hợp giữa YHCT và y học hiện đại trong điều trị bệnh

Theo GS. Domenico, kết hợp y học cổ truyền và y học phương Tây có thể mang lại nhiều triển vọng, đặc biệt đối với một số bài thuốc điều trị bệnh ung thư và tự miễn từ Việt Nam.

Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), y học cổ truyền (YHCT) là các kiến thức, kỹ năng, và cách thực hành dựa trên lý thuyết, tín ngưỡng, và kinh nghiệm của nền văn hóa bản địa để duy trì sức khỏe và phòng ngừa, chẩn đoán hay điều trị các bệnh thể chất hoặc tinh thần.

Nhìn lại lịch sử ngành dược học, vào năm 1929, phát minh ra thuốc penicillin của Fleming đã mở đường cho sự phát triển ra ngành dược học. Sau đó, khái niệm YHCT ở phương Tây đã bị mai một. Thế giới của dược học hiện đại đã chiếm lĩnh với sự phát triển của ngành dược học, có 2 bác sĩ người Italia đã được ghi danh là Marcello Mastroianni và Vittorio De Sica.

Thế giới phương Tây và phương Đông vẫn có thể kết hợp với nhau hay không? Một bên là YHCT với thuốc cây lá, bài thuốc dân gian với bên kia là y học hiện đại: thuốc hóa học, tây y, viên, tuýp….Hai thế giới đó có đối lập nhau không? Trong công trình đoạt giải thưởng Nobel y học của bác sĩ người Trung Quốc, người ta đã chiết xuất Artemisia annua bằng công nghệ vi sinh để làm ra viên thuốc. Đó là dược học hiện đại đã chiết xuất cây thuốc dân gian để trị bệnh sốt rét. Một loài cây, qua chiết xuất, thành viên thuốc, nó từ thuốc cổ truyền thành thuốc tây y, nó đã cứu sống hàng triệu người. Như vậy ý tưởng kết hợp cả hai nền YHCT và phương Tây rất tiềm năng.

Theo GS. Domenico, các loài cây 15-20 năm có tác dụng tốt để điều chế thuốc. Nhiều thuốc hiệu quả chữa bệnh nặng như bệnh hen suyễn. Ông còn khám phá tiềm năng của những loài cây y học bổ sung như dacricarpus để chữa ung thư qua tìm hiểu với GS. Thu Thủy. Italia và Việt Nam có thể kết hợp tinh hoa nền YHCT của Việt Nam với y học phương Tây của Italia trong công nghệ sinh học, vi sinh để bào chế thuốc chữa bệnh tiềm năng.

Italia và Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm nghiên cứu trong trồng lúa

Italia và Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm nghiên cứu trong trồng lúa, đảm bảo an ninh lương thực và bảo vệ môi trường

Hợp tác Khoa học&Công nghệ Việt Nam-Italia

*Tiềm năng ứng dụng cây thuốc cổ truyền Việt Nam trong chiết xuất, bào chế dược liệu điều trị bệnh tự miễn và bệnh ung thư giữa ĐH Perugia (Italia) với Viện KH&CN Việt Nam.

* Nghiên cứu ứng dụng cây trồng thích nghi với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường: trong đó có hạn chế bệnh đạo ôn ở cây lúa. Nghiên cứu vi sinh vật ở cây lúa giúp giảm lượng phân bón, thuốc trừ sâu. Ở Italia cũng trồng lúa nhưng chỉ một vụ, từ tháng 5-tháng 9.

* Nghiên cứu Tiềm năng của điện năng lượng mặt trời: năng lượng xanh giảm phát thải nhà kính ở VN.

* Công nghệ 5G trong điện thoại di động và mạng internet.

Nguyễn Vân

Những thói quen bỏ càng sớm càng có lợi cho sức khỏe tim mạch

Ngồi nhiều

Ngồi hàng giờ, thậm chí nhiều giờ trong ngày để xem tivi, làm việc, lái xe, ăn uống… có thể làm tăng nguy cơ đau tim và đột quỵ, ngay cả khi bạn tập thể dục đều đặn. Điều này xảy ra là do sự ít vận động, di chuyển có thể ảnh hưởng đến chất béo và lượng đường trong máu. Giáo sư Jamea A.Levine thuộc Bệnh viện Mayo Clinic (Mỹ) cho biết, khi cơ thể ở tư thế ngồi, các bắp thịt thư giãn và hoạt động của các enzyme giảm từ 90 - 95%, khiến lượng chất béo tồn đọng nhiều trong máu. Chỉ cần chúng ta ngồi liên tục trong vài giờ là lượng cholesterol tốt đã giảm tới 20%. Những ai thường xuyên ngồi xem tivi hay vào mạng internet trong thời gian lâu thường dễ bị béo phì và huyết áp cao, lượng chất béo triglyceride và đường huyết cũng tăng cao, tất cả các yếu tố này đều liên quan đến nguy cơ tim mạch.

Lo lắng, căng thẳng

Cảm giác căng thẳng hoặc chán nản có thể ảnh hưởng đến nhiều bệnh, trong đó có bệnh lý tim mạch. Nguyên nhân là do khi lo lắng, căng thẳng tim sẽ đập nhanh hơn khiến tim phải tăng co bóp, tăng hoạt động nên càng nhiều lần lo lắng thì ảnh hưởng đến tim càng lớn. Bên cạnh đó, khi lo lắng, tuyến thượng thận tự tiết ra hormon catecholamine, một loại hormon có tác dụng làm co mạch ngoại vi (gây biểu hiện mặt mũi trắng bợt, tay chân lạnh toát khi sợ hãi) nhưng cũng có thể làm tăng nhịp tim và tăng huyết áp, về lâu dài sẽ gây ra các bệnh tim mạch.

Ngủ ngáy

Ngáy có thể gây ra chứng ngừng thở khi ngủ, được biểu hiện bằng hơi thở bị gián đoạn trong khi ngủ, có thể gây ra huyết áp cao. Đây là một trong những thói quen xấu cho trái tim, đặc biệt là với nữ giới. Một nghiên cứu do TS. Frank Hu của Đại học Y Khoa Harvard, Boston, Massachusetts, Mỹ thực hiện trên 72 nghìn y tá về ảnh hưởng của ngáy đối với bệnh tim mạch đã cho thấy, phụ nữ bị chứng ngủ ngáy có rủi ro về bệnh tim mạch cao gấp 2 lần phụ nữ không ngáy.

Không dùng chỉ nha khoa

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng có mối liên quan chặt chẽ giữa bệnh nướu răng và bệnh tim. Không dùng chỉ nha khoa có thể dẫn đến vi khuẩn sinh sôi trong mảng bám và mảnh vụn thức ăn trên răng. Tình trạng này kéo dài gây ra biểu hiện viêm trong cơ thể và là một trong những nguyên nhân dẫn đến chứng xơ vữa động mạch.

Uống rượu quá nhiều

Người uống quá nhiều rượu có nguy cơ cao bị tăng huyết áp, mỡ máu cao và suy tim. Ngoài ra, thừa calo cũng có thể dẫn đến tăng cân và có thể tạo ra một mối đe dọa đến sức khoẻ tim mạch. Phụ nữ không uống nhiều hơn một ly mỗi ngày, và nam giới không quá hai ly một ngày. Cụ thể, đối với bia, một cốc tương đương 355 ml, một ly rượu thường là 148 ml, rượu mạnh là 45 ml.

Bên cạnh các yếu tố trên, việc ăn quá nhiều gây béo phì hay ăn thịt đỏ có hàm lượng chất béo bão hòa cao, đặc biệt là thịt chế biến sẵn cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch cần được chú ý.

Lê Thu Lương

(Theo Boldsky.com)

Phục hồi chức năng cho người bệnh tâm thần phân liệt

Phục hồi chức năng cho người bệnh tâm thần phân liệt sau điều trị là quá trình thực hiện, tạo nên cơ hội cho bệnh nhân vốn chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống hàng ngày đạt được các mục đích tối ưu về chức năng sinh hoạt giao tiếp, tâm lý xã hội, lao động nghề nghiệp để có thể hòa nhập với cộng đồng và môi trường ở chung quanh.

Phục hồi chức năng tâm lý xã hội

Sự cần thiết phải phục hồi và cách thức phục hồi:

Bệnh nhân tâm thần phân liệt sau khi được điều trị có thể hết các triệu chứng rối loạn tâm thần nhưng không học tập, làm việc và lao động được; có nội tâm bất ổn định làm ảnh hưởng đến sinh hoạt. Người bệnh thường có khuynh hướng sống ngày càng tách rời, xa lánh xã hội ở chung quanh; khó hòa nhập với cộng đồng và bệnh có khả năng tiến triển trở thành mạn tính. Trên cơ sở tồn tại này, xã hội cũng có xu hướng bỏ rơi bệnh nhân và thường xem họ không thể giúp ích được gì cho xã hội.

Để giúp cho việc phục hồi chức năng của người bệnh tâm thần phân liệt sau điều trị, nhân viên y tế cần giải thích cho người bệnh, gia đình bệnh nhân về bệnh lý mắc phải; đồng thời nên chấp nhận bệnh tâm thần phân liệt, xây dựng các chương trình phục hồi chức năng tâm lý và lao động nghề nghiệp cho từng người bệnh. Ngoài ra, phải giải thích cho người bệnh tầm quan trọng của việc dùng thuốc và cách dùng thuốc; hướng dẫn xử trí các tác dụng phụ của thuốc. Cần giúp cho người bệnh, người nhà của bệnh nhân biết cách ứng xử với những biểu hiện bất thường có thể phát hiện.

Một số điểm cần lưu ý khi phục hồi:

Cần lưu ý người bệnh tâm thần phân liệt bỏ nhà đi lang thang dễ có nguy cơ bệnh nặng thêm và bị nhiều ảnh hưởng khác do không được chăm sóc. Phải thuyết phục làm sao để gia đình, người thân của bệnh nhân ứng xử với người bệnh thuận lợi; bệnh nhân cảm thấy có được sự quan tâm, chăm sóc, yêu thương, đùm bọc; có không khí ấm áp, cảm giác an toàn khi sống với người thân. Trên thực tế, người bệnh không thể thực hiện được các hoạt động, công việc như trước khi bị bệnh; vì vậy bác sĩ điều trị và người thân của bệnh nhân phải quan tâm tìm hiểu khả năng sinh hoạt, làm việc của người bệnh; trên cơ sở này giúp họ có thể làm được những việc có ích mà họ có thể làm được.

Người bệnh không thể thực hiện sinh hoạt một cách hoàn chỉnh, công việc hay nôn nóng; do đó cần hướng dẫn cho người thân trong gia đình hiểu là phải kiên nhẫn, chia công việc ra từng công đoạn cho người bệnh dễ thực hiện, dần dần làm từ việc đơn giản đến việc phức tạp để có thể thực hiện phù hợp, khỏi bồn chồn và nôn nóng. Đối với những hành vi, cách cư xử khác thường của người bệnh; nhân viên y tế cần giải thích cho gia đình bệnh nhân có sự hiểu biết cần thiết để không nên căng thẳng, không nên phê phán và tranh luận hoặc trừng phạt hay xa lánh họ; tìm cách hướng dẫn người bệnh tránh thực hiện những hành vi, cách cư xử khác thường đó.

Nên động viên, khuyến khích, biểu dương, khen ngợi khi người bệnh làm được một việc tốt hoặc có sự cư xử phù hợp với những vấn đề mà người thân và gia đình mong muốn để họ vẫn cảm thấy rằng bản thân mình được yêu mến, sống còn có ích; dễ chấp nhận sự hướng dẫn điều trị, chăm sóc của bác sĩ và gia đình hơn. Hướng dẫn, giúp đỡ người bệnh để họ có thể quyết định thực hiện được một cách đúng đắn trước một công việc nào đó rất quan trọng và cần thiết. Bác sĩ điều trị, gia đình và người thân của bệnh nhân phải thường xuyên, tiếp tục nói chuyện với người bệnh, để cho họ tham gia vào những cuộc nói chuyện trong gia đình; cần lắng nghe để người bệnh có thể nói được hết những suy nghĩ, tâm tư, cảm giác và thể hiện là mọi người trong nhà đều hiểu được họ.

Trong sinh hoạt hàng ngày, cần giúp đỡ và hướng dẫn người bệnh thực hiện được những công việc thông thường, biết tự chăm sóc cho bản thân mình, có thể làm được những việc đơn giản như tắm giặt, vệ sinh cá nhân; gấp chăn màn, quần áo; quét nhà, thu xếp, dọn dẹp gọn gàng nơi ăn chốn ở của họ... Không nên để bệnh nhân ở trong tình trạng thụ động, cần giúp đỡ và hỗ trợ họ đi lại, đi chơi đây đó, giao tiếp, ứng xử, làm việc phù hợp với khả năng của họ. Tránh những tình huống có thể ảnh hưởng, làm cho tình trạng bệnh lý của người bệnh càng nặng thêm như bị những cảm xúc căng thẳng, lo lắng, sợ hãi, buồn phiền; có những lời nói, cử chỉ, hành vi, thái độ thiếu thân thiện, không thận trọng của người chung quanh; tránh các cảm xúc đau buồn đột ngột, những xung đột trong mối quan hệ trong gia đình và cộng đồng xã hội đối với bản thân họ.

Khi tình trạng bệnh lý của người bệnh trở nên xấu hơn qua cách cư xử khác thường của bệnh nhân như: trầm lặng, không ăn uống, thu mình lại hoặc trở nên hiếu động, nói luôn miệng hoặc bị kích động, sợ hãi; có ý định gây thương tích cho bản thân hay dọa nạt, tấn công người khác thì gia đình cần nhanh chóng đưa người bệnh đến các bệnh viện chuyên khoa để được xử trí điều trị phù hợp.

Phục hồi chức năng lao động nghề nghiệp

Sự cần thiết phải phục hồi:

Người bệnh tâm thần phân liệt sau khi được điều trị có thể giảm bớt hoặc mất đi các triệu chứng bệnh lý, chức năng tâm lý xã hội có khả năng được hồi phục nhưng không thể lao động, làm việc được; trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội dẫn đến sự buồn chán đối với bản thân. Vì vậy, việc phục hồi chức năng lao động nghề nghiệp cho người bệnh sẽ giúp khắc phục được tình trạng này.

Lao động nghề nghiệp sẽ giúp cho người bệnh phát huy khả năng hoạt động tâm thần, hướng suy nghĩ của bệnh nhân vào công việc; hạn chế bớt việc suy nghĩ lan man, giúp họ quên đi bệnh tật, quên các cảm giác khó chịu do tình trạng ảo giác và hoang tưởng gây ra. Công việc và lao động nghề nghiệp cũng giúp người bệnh thoát khỏi hoàn cảnh ăn không ngồi rồi, đi lang thang, phá phách; giúp họ tự tin vào bản thân, xóa bỏ mặc cảm, ăn ngon và ngủ yên hơn. Đồng thời chính công việc và lao động nghề nghiệp cũng sẽ làm cho mọi người ở chung quanh giảm bớt những suy nghĩ sai lầm về người bệnh.

Cách thức phục hồi:

Trên thực tế, tùy theo từng trường hợp người bệnh và hoàn cảnh, môi trường sống của mỗi bệnh nhân để chọn lựa cho họ loại hình lao động nghề nghiệp thích hợp, phục hồi công việc cũ trước đây người bệnh vẫn làm như chăn nuôi, trồng trọt, lao động tiểu thủ công nghiệp... Có thể dạy cho bệnh nhân một công việc mới đơn giản, dễ thực hiện và phù hợp điều kiện hoàn cảnh. Lưu ý các công việc để người bệnh bắt đầu trở lại làm là những việc nhẹ nhàng, đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp hoặc có thể chia công việc ra làm nhiều công đoạn để giúp họ dễ dàng làm và hoàn thành từng công đoạn một. Khi khởi đầu, cần có người hướng dẫn, kèm cặp, giúp đỡ; bảo đảm an toàn cho người bệnh khi lao động, làm việc. Nên có sự đánh giá, động viên, khen ngợi và khuyến khích họ để thúc đẩy công việc thực hiện tốt hơn.

Một vấn đề cũng cần được quan tâm là tổ chức thời gian phục hồi lao động nghề nghiệp phải phù hợp với tình hình sức khỏe của người bệnh, khả năng làm việc của từng người; đồng thời nên động viên bệnh nhân cố gắng, kiên nhẫn trong công việc và giúp cho họ có được thu nhập từ chính lao động nghề nghiệp của mình để tạo niềm tin nỗ lực phấn đấu.

Lời khuyên của thầy thuốcHiện nay theo các nhà khoa học, bệnh tâm thần phân liệt chiếm tỉ lệ khoảng từ 0,3 - 1% dân số ở các nước và có khuynh hướng phát triển ở nhóm tuổi còn trẻ từ 18 - 40, đây là lứa tuổi lao động chính của gia đình và xã hội. Vì vậy, sau khi người bệnh được điều trị giảm bớt hoặc khỏi hẳn những triệu chứng bệnh lý lâm sàng, gia đình bệnh nhân kể cả nhân viên y tế ở các cơ sở y tế chuyên khoa cần quan tâm đến việc thực hiện phục hồi chức năng tâm lý xã hội và lao động nghề nghiệp nhằm giúp bệnh nhân có điều kiện tiếp cận với môi trường sống ở chung quanh, hòa nhập vào cộng đồng như những người bình thường khác để họ không còn là gánh nặng của gia đình và xã hội nữa.

BS. NGUYỄN TR M ANH

Mùa lạnh phòng bệnh tiêu chảy do Rotavirus

Đây là bệnh thông thường nhưng đáng lo ngại là tình trạng phụ huynh điều trị sai, coi thường hoặc nhầm tiêu chảy mùa đông sang bệnh khác như trẻ bị sốt, quấy do mọc răng, hay bị cảm về đêm..., hậu quả là nhiều bé bị mất nước trầm trọng.

Biểu hiện của bệnh

Sau 1 - 4 ngày bị lây nhiễm virut, trẻ có các biểu hiện của bệnh. Với bệnh này, thông thường trẻ sẽ nôn trước, sau khoảng 1 - 2 ngày thì bắt đầu đi ngoài, có bé thì bị đi ngoài rồi mới nôn. Trẻ bị tiêu chảy nếu không nôn sẽ khỏe hơn vừa tiêu chảy vừa nôn. Hơn nữa, hiện tượng nôn trớ rất bất ngờ, bé đang chơi, ăn uống bình thường nhưng chỉ qua nửa ngày đã có thể có hiện tượng này, cứ ăn cái gì vào là nôn ra cái đó.

Cho trẻ uống vắc - xin là biện pháp phòng bệnh tiêu chảy do Rotavirrus hiệu quả nhất. Ảnh: H.Hà

Trẻ thường đi ngoài nhiều lần trong ngày (phân màu xanh hoặc màu trắng lẫn dịch nhầy, có khi như màu hoa cà, hoa cải), phân thường nhiều nước.

Ngoài ra, trẻ có thể ho, sốt, chảy nước mũi nên nhiều cha mẹ dễ nhầm với viêm đường hô hấp, viêm mũi họng.

Trẻ bị tiêu chảy do Rotavirus nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ nhanh chóng bị suy kiệt do mất nước và mất muối, dễ dẫn đến trụy mạch và tử vong. Chính vì vậy, các phụ huynh không được chủ quan khi thấy những biểu hiện mất nước ở trẻ như: môi khô, lưỡi khô, da khô, tiểu ít, kích thích, quấy khóc.

Chăm sóc trẻ mắc tiêu chảy cấp tại nhà

Với những trẻ mất nước ở mức độ nhẹ, gia đình hoàn toàn có thể chăm sóc con tại nhà dự phòng mất nước và suy dinh dưỡng, trong đó cần đảm bảo cho trẻ uống nhiều dịch hơn bình thường để đề phòng mất nước như: oresol, nước cháo muối, nước cơm có muối, súp hoa quả hoặc súp gà, súp thịt, nước sạch. Trong đó tốt nhất là bù nước, bù điện giải, tốt nhất là bằng nước oresol. Trên thị trường hiện có nhiều loại dành cho trẻ với hương vị rất dễ uống. Cần lưu ý là pha vào nước theo quy định, không pha loãng hay đặc quá vì nếu không sẽ càng gây rối loạn nước và điện giải, tình trạng tiêu chảy càng nặng hơn, trẻ có thể tử vong.

Cha mẹ nên đút từng thìa

oresol cho trẻ uống, 2 phút một lần, không nên cho bé uống liên tục. Vì uống nhiều và liên tục,

oresol không những không hấp thu vào đường ruột mà lượng nước có thể mất nhiều hơn do bị nôn. Nếu trẻ bị nôn thì dừng lại 10 phút, sau đó cho uống lại với tốc độ chậm hơn.

Giữ vệ sinh tay sạch sẽ là biện pháp cơ bản để phòng bệnh tiêu chảy. Ảnh: Đ. Tuấn

Nếu bù nước, điện giải cho trẻ không hợp lý như chỉ cho trẻ uống nước lọc sẽ không hiệu quả, hoặc cho trẻ uống cháo gạo quá mặn, nước hoa quả pha đường. Thậm chí, có cha mẹ cho con uống cả coca, soda và các loại nước có ga cấm dùng cho trẻ tiêu chảy..., khiến bệnh của trẻ càng nặng hơn.

Tiếp tục cho trẻ ăn đề phòng suy dinh dưỡng: Phần lớn trẻ tiêu chảy phân nước sẽ thèm ăn trở lại khi được bù đủ dịch. Vì vậy, trong giai đoạn này, khẩu phần ăn hằng ngày của bé nên được tiếp tục và tăng dần lên. Cho trẻ ăn đủ dinh dưỡng giúp cơ thể bé chóng bình phục, hồi phục cân nặng và chức năng đường ruột. Tuy nhiên, cần tránh các loại rau sợi thô, củ quả, hạt ngũ cốc nhiều chất xơ vì khó tiêu hóa. Đối với trẻ bú mẹ hoàn toàn, cần cho trẻ bú nhiều hơn và lâu hơn sau mỗi lần bú. Nếu trẻ không bú mẹ hoàn toàn, cho trẻ uống một hoặc nhiều loại dung dịch như đã đề cập ở trên. Tuyệt đối tránh cho trẻ sử dụng các loại nước uống ngọt có đường, nước trà đường, nước trái cây sản xuất công nghiệp vì các dung dịch này có thể làm tình trạng tiêu chảy trầm trọng thêm.

Khi nào cần truyền dịch?

Trẻ bị tiêu chảy, nôn trớ nhưng uống nước oresol, ăn được, chơi bình thường... thì cha mẹ không nhất thiết phải truyền dịch. Nếu bé đi ngoài, nôn nhiều, mệt mỏi, không ăn uống, không chơi, nằm li bì, có hiện tượng mất nước như mắt lõm, da nhăn nheo thì cha mẹ cần đưa con đến bệnh viện để được truyền dịch kịp thời.

Lưu ý, khi trẻ bị tiêu chảy do virut, cha mẹ tuyệt đối không được cho con uống thuốc kháng sinh, thuốc cầm tiêu chảy vì sẽ làm cho trẻ có nguy cơ bị rối loạn vi khuẩn đường tiêu hóa, giảm nhu động ruột làm bệnh nặng hơn hoặc gây tình trạng tiêu chảy kéo dài, chưa kể các tác dụng phụ do thuốc gây ra.

Bệnh có thể phòng

Tiêu chảy cấp do Rotavirus lây lan rất nhanh, do đó nếu trẻ bị bệnh nên cho trẻ nghỉ học cho đến khi hết tiêu chảy để tránh lây lan cho các trẻ khác. Hiện nay phương pháp phòng bệnh hiệu quả nhất là cho trẻ uống vắc-xin. Trẻ được uống 2 liều cách nhau 1 tháng, bắt đầu từ tuần lễ thứ 6 sau khi sinh (tuổi lớn nhất còn có thể uống được vắc-xin phòng Rotavirus là 3 tháng tuổi, tuổi kết thúc uống là 4 tháng tuổi). Sau khi uống vắc-xin lần thứ nhất, cần theo dõi xem trẻ có biểu hiện dị ứng hoặc bất thường để báo ngay với bác sĩ.

Bên cạnh đó, giữ vệ sinh tay sạch sẽ là biện pháp cơ bản để phòng bệnh. Nên tập cho trẻ có thói quen rửa tay trước khi cầm nắm thức ăn, trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh. Người chăm sóc trẻ phải rửa tay sạch bằng xà phòng sau khi thay tã lót hoặc làm vệ sinh cho trẻ.

Không để trẻ bò lê la trên sàn nhà hoặc ngậm tay, ngậm đồ chơi. Lau rửa sàn nhà và các vật dụng, bàn ghế, đồ chơi bằng dung dịch khử khuẩn Cloramin B, lau rửa sàn nhà vệ sinh, bồn cầu sau khi trẻ tiêu chảy đi vệ sinh.

Bác sĩ Nguyễn Minh Ngọc

Nhận biết và xử trí khi progesterone cao

Tuy nhiên, có những trường hợp, progesterone cao có thể do các nguyên nhân khác. Mức progesterone cao có thể dẫn đến một loạt các phản ứng không mong muốn.

Các triệu chứng của progesterone cao

Sự mất cân bằng hormon này có thể dẫn đến nhiều phản ứng phụ tiêu cực. Khi nồng độ progesterone cao cơ thể sẽ có các triệu chứng như: lo lắng, đầy hơi, đau ngực, trầm cảm, mệt mỏi, mất ham muốn tình dục, tâm trạng dễ thay đổi, yếu cơ, khô âm đạo.

Các triệu chứng ít gặp hơn bao gồm: mụn trứng cá, da nhờn, nhức đầu, nóng bừng, mất kiềm chế, nhiễm trùng niệu, tăng cân.

Các xét nghiệm đánh giá mức progesterone cao

Biểu đồ nhiệt độ nền cơ thể BBT (Basal body temperature): Nhiệt độ nền cơ thể hoặc biểu đồ BBT, là quá trình ghi lại nhiệt độ cơ thể khi nghỉ ngơi mỗi ngày để nắm bắt thông tin liên quan chu kỳ kinh nguyệt. Sau khi rụng trứng, ở phụ nữ có tình trạng tăng nhiệt độ cơ thể nhưng ổn định và tăng nhẹ. Nếu nhiệt độ không đều hoặc liên tục cao, có thể có mức progesterone cao.

Độ dài thời gian của giai đoạn hoàng thể (luteal phase): Nếu thời gian rụng trứng ít hơn 11 ngày trước khi có kinh, đây có thể là dấu hiệu của khiếm khuyết liên quan đến giai đoạn hoàng thể. Rụng trứng có thể được phát hiện thông qua việc sử dụng một thiết bị dò rụng trứng, hoặc biểu đồ BBT.

Kiểm tra hormon tuyến nước bọt: Các xét nghiệm nội tiết có thể được thực hiện thông qua kiểm tra nước bọt. Sau khi phân tích nước bọt, phòng xét nghiệm có thể xác định được mức progesterone thấp hay cao.

Kiểm tra hormon trong máu: Mặc dù xét nghiệm hormon của nước bọt có thể tiện ích và không xâm nhập so với xét nghiệm hormon trong máu, nhưng xét nghiệm hormon trong máu có thể giúp xác định một số thông tin quan trọng của cơ thể bạn.Ăn đậu nành và các sản phẩm từ đậu nành có thể cải thiện tình trạng progesterone cao (không do thai nghén).

Ăn đậu nành và các sản phẩm từ đậu nành có thể cải thiện tình trạng progesterone cao (không do thai nghén).

Thời điểm kiểm tra mức progesterone tốt nhất

Nếu có bất kỳ triệu chứng liên quan đến sự mất cân bằng hormon, bác sĩ có thể chỉ định kiểm tra mức progesterone. Thời gian tốt nhất để thực hiện kiểm tra là 7 ngày sau khi rụng trứng hoặc 7 ngày trước khi khi có kinh nguyệt. Vào những thời điểm này, có nhiều khả năng phát hiện mức đỉnh của progesterone.

Mức progesterone cao trong thai kỳ sớm

Nồng độ progesterone cao thường gặp đối với phụ nữ mang thai. Khi bào thai phát triển, nồng độ progesterone cũng tăng lên. Sự gia tăng progesterone có thể khiến bà mẹ cảm thấy kiệt sức và làm chậm tốc độ tiêu hóa thức ăn gây ra táo bón.

Trong thời kỳ mang thai, nếu mức progesterone tăng quá cao, có thể gợi ý có tình trạng đa thai song sinh hoặc sinh ba...

Mức progesterone tăng cũng có thể chỉ ra một vấn đề sức khỏe tiềm ẩn, chẳng hạn như u nang buồng trứng, thai ngoài tử cung và đôi khi gặp trong ung thư buồng trứng.

Cách xử trí với mức progesterone cao

Thay đổi lối sống: Thông thường bước đầu tiên để duy trì sự cân bằng của hormon là thay đổi lối sống thích hợp. Tập thể dục thường xuyên và ăn uống lành mạnh, cùng với các thực hành giảm stress như thiền và yoga, không những giúp làm giảm các triệu chứng liên quan đến nồng độ progesterone cao, mà còn cải thiện sức khỏe tổng thể và tinh thần. Một số nghiên cứu cho thấy có thể làm giảm các triệu chứng liên quan đến sự mất cân bằng progesterone bằng cách ăn các thực phẩm làm tăng lượng estrogen cho cơ thể như đậu nành, anh đào, khoai tây, lúa mì, gạo, táo.

Giải pháp thảo dược: Một số phụ nữ có thể muốn thử các liệu pháp thảo dược để kiểm soát các triệu chứng liên quan đến mức progesterone cao. Hai loại thảo mộc có khả năng hiệu quả nhất là các loại thảo mộc chứa nhiều hợp chất phytoestrogen và các loại thảo mộc không estrogen.

Các loại thảo mộc chứa phytoestrogen, chẳng hạn như thiên ma (black cohosh), cung cấp hợp chất estrogen từ thực vật cho cơ thể, giúp loại trừ sự mất cân bằng hormon. Lưu ý chỉ được sử dụng khi có ý kiến của bác sĩ.

Các loại thảo mộc không estrogen, như macafem, trái ngược với loại thảo mộc chứa phytoestrogen. Những loại thảo mộc không estrogen hỗ trợ các tuyến nội tiết tăng sản xuất hormon. Các loại thảo mộc này được xem là ít gây khó chịu nhất và an toàn nhất để điều trị chứng mất cân bằng progesterone. Lưu ý chỉ được sử dụng khi có ý kiến của bác sĩ.

Liệu pháp thay thế hormon: Hình thức trị liệu này liên quan đến việc sử dụng thuốc chứa hormon để giải quyết sự mất cân bằng của progesterone. Cần lưu ý rằng liệu pháp thay thế hormon có nhiều tác động tiêu cực và có thể làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông, ung thư vú, đột quỵ và bệnh tim.

BS. Thanh Hoài

Ca phẫu thuật 16 tiếng “lấy lại” gương mặt cho bệnh nhân có khối u khủng

 

Suốt ca mổ kéo dài kỷ lục 16 giờ đồng hồ, Thắng không phải truyền bất kỳ đơn vị máu nào. Với khả năng phẫu thuật tốt cùng sự chuẩn bị kỹ càng và phối hợp nhuần nhuyễn giữa các chuyên khoa, các bác sỹ đã loại bỏ khối u khủng, giúp Thắng “lấy lại gương mặt" như người bình thường

11 chuyên khoa phối hợp lên kịch bản chặt chẽ cho ca phẫu thuật

Lần đầu tiên nhìn con trai Lê Trọng Thắng sau ca phẫu thuật dài 16 tiếng đồng hồ, bà Lê Thị Thành và ông Lệ Trọng Hà (xã Phú Lâm, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) không cầm được nước mắt. Còn anh Lê Trọng Nam không tin vào mắt mình khi thấy khối u “khủng” vốn làm gương mặt cậu em trai 23 tuổi bị biến dạng suốt hơn 1 năm qua nay đã biến mất.

Anh Nam cho biết ngoài thiểu năng trí tuệ bẩm sinh, căn bệnh động kinh đeo bám Thắng từ nhỏ khiến cả gia đình bế tắc suốt hơn 20 năm qua. Cách đây hơn 1 năm, đầu và cổ Thắng bắt đầu xuất hiện những u, cục. Khối u “lớn nhanh như thổi” khiến cơ thể Thắng kiệt quệ, khuôn mặt biến dạng, mắt phải có nguy cơ bị phá hủy.

Hơn 1 năm trời, khối u của Thắng lớn nhanh và che lấp gần hết khuôn mặt

Có không ít người can ngăn gia đình bà Thành đừng cố chạy chữa cho Thắng vì Thắng bị động kinh, càng chạy chữa thì càng tốn kém nhưng bà Thành và chồng vẫn kiên trì đưa con đi khắp nơi. May mắn trong lúc tuyệt vọng, một tổ chức từ thiện đã giúp đỡ đưa vợ chồng bà và Thắng đến Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City.

Tại đây, sau khi thăm khám toàn diện, Thắng được chẩn đoán mắc u xơ thần kinh, tiến triển thành những khối u lớn. Kết quả sinh thiết loại bỏ khả năng ung thư. Các chuyên gia từ 11 chuyên khoa cùng hội chẩn, đánh giá việc phẫu thuật cắt bỏ khối u là khả thi và cần thiết. Nhưng để đảm bảo an toàn và hiệu quả thì cuộc mổ cần có “kịch bản” chặt chẽ.

BS Vũ Đức Nhã (khoa Liên chuyên khoa, Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City) cho biết: “Khối u lớn gây suy kiệt nên bệnh nhân bị thiếu máu do dinh dưỡng. Chúng tôi đã truyền máu, hướng dẫn gia đình chăm sóc chu đáo. Sau 1 tháng, sức khỏe và thể lực của bệnh nhân cải thiện đáng kể, đủ điều kiện phẫu thuật”.

Bệnh nhân không phải truyền máu trong suốt 16 giờ diễn ra ca phẫu thuật

Lúc này, việc gây mê trở thành thách thức khi thực hiện trên một bệnh nhân động kinh không có khả năng hợp tác, thời gian mổ lại kéo dài. Nhờ áp dụng những kỹ thuật tiên tiến nhất, Vinmec đã gây mê thành công. Ngoài ra, ca mổ còn đối diện với nguy cơ chảy máu do khối u mô mềm này rất dễ gây mất máu. Vì vậy, trước khi mổ, bệnh nhân được chụp Cathlab tổng kiểm tra hệ thống mạch và nút những mạch máu lớn.

“Sau nút mạch, 90% máu nuôi dưỡng khối u bị ngăn chặn, đảm bảo không chảy máu trong quá trình phẫu thuật. Đây cũng là lý do khiến bệnh nhân hoàn toàn không phải truyền một đơn vị máu nào trong suốt 16 giờ diễn ra ca mổ” - BS Trần Hữu Tuấn (Trưởng khoa Liên chuyên khoa, Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City) nhấn mạnh. Toàn bộ khối u vùng mắt và dưới hàm phải nặng tới hơn 1 kg - khối lượng “khủng” với loại u mô mềm trên gương mặt của bệnh nhân Thắng đã lần lượt được các bác sĩ bóc tách thành công mà không có bất kỳ trở ngại nào. Bệnh nhân đồng thời được tạo hình ngay tại chỗ.

Ca phẫu thuật kéo dài 16 tiếng nhưng Thắng chỉ mất 500ml máu. Đây là yếu tố quan trọng để bệnh nhân sớm hồi phục

Nhờ không mất nhiều máu kết hợp với hồi sức sau mổ - chăm sóc dinh dưỡng - phục hồi chức năng, cách ly hoàn toàn với nguy cơ nhiễm khuẩn nên sức khỏe bệnh nhân hồi phục nhanh. Đến ngày thứ 4 sau phẫu thâutj, Thắng đã có thể ngồi dậy và ăn uống bình thường.

“Nhìn gương mặt em trai bây giờ, tôi và gia đình mừng  lắm. Trước đây cứ nghĩ việc chữa trị sẽ  vô vọng, gia đình đã có lúc “chấp nhận số phận”. Nhưng cuối cùng thì thần may mắn đã mỉm cười, chấm dứt chuỗi ngày chật vật chạy chữa, mang lại cho em tôi và gia đình một cuộc sống hoàn toàn mới” - anh Nam (anh trai của Thắng) chia sẻ.

Đánh giá về ca phẫu thuật "lấy lại gương mặt bình thường" của bệnh nhân Thắng, BS Trần Hữu Tuấn nhấn mạnh: “Việc chuẩn bị tỉ mỉ, quá trình theo dõi đầy đủ và chăm sóc toàn diện cùng sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các chuyên khoa là “chìa khóa thành công” cho ca phẫu thuật này – đặc biệt là chuyên khoa dinh dưỡng, hồi sức, gây mê, chẩn đoán hình ảnh, can thiệp mạch và ekip phẫu thuật”.

Thái Bình

Tại sao thường ngủ ít?

Ngủ là một hoạt động tự nhiên theo định kỳ mà những cảm giác và đa số các cơ quan trong cơ thể vận động tạm thời bị hoãn lại một cách tương đối (trừ tim, mạch, hô hấp, thận… vẫn hoạt động nhưng tần số chậm hơn bình thường). Với đặc điểm dễ nhận thấy là cơ thể bất tỉnh hoàn toàn hoặc một phần và sự bất động của gần như hầu hết các cơ bắp.

Vai trò của giấc ngủ sinh lý

Sau một ngày làm việc, cơ thể cần thời gian để nghỉ ngơi và hỗ trợ hệ thống miễn dịch bài tiết các chất độc hại (ví dụ, đối với gan, từ 1 giờ đến 3 giờ sáng là lúc gan hoạt động mạnh nhất để bài tiết các chất độc hại). Vì thế trong khoảng thời gian này, càng ngủ sâu thì càng có tác dụng giúp gan hoàn thành việc loại trừ các độc tố trong cơ thể. Một giấc ngủ sâu và theo đúng nhịp sinh học sẽ mang đến cảm giác thoải mái khi thức giấc. Tác dụng của giấc ngủ sinh lý không chỉ giúp người bệnh nhanh chóng phục hồi sức khỏe mà còn có tác dụng nuôi dưỡng da, phòng ngừa suy giảm trí nhớ, giảm nguy cơ đột quỵ và hàng loạt bệnh tật khác cho NCT.

Sau 60 tuổi họ ngủ 5-6 giờ mỗi đêm

Sau 60 tuổi họ ngủ 5-6 giờ mỗi đêm

Như thế nào là giấc ngủ ngon?

Trung bình người trưởng thành cần ngủ 7 - 9 tiếng mỗi đêm. Một giấc ngủ ngon là phải đảm bảo số giờ ngủ và chất lượng, có nghĩa là phải ngủ đủ giấc và ngủ sâu. Dấu hiệu để NCT nhận thấy có ngủ ngon hay không qua cảm nhận sau khi ngủ dậy. Nếu khi thức dậy với tinh thần thoải mái, chứng tỏ đã có một giấc ngủ tốt, còn nếu vừa ngủ dậy mà vẫn buồn ngủ và khó chịu, không tập trung làm việc, có thể đã bị rối loạn giấc ngủ.

Một giấc ngủ ngon là phải ngủ đủ giấc và ngủ sâu

Vì sao càng có tuổi càng khó ngủ?

Các nghiên cứu cho biết NCT, nhất là nam giới, ngủ ít hơn về thời gian - trung bình, sau 60 tuổi và nhất là sau khi nghỉ hưu, họ ngủ 5 hay 6 giờ mỗi đêm thay vì 7 hay 8 giờ, trung bình giấc ngủ của người trẻ. Chẳng những thế, về chất lượng, NCT ngủ nông hơn vì họ thức giấc nhiều lần hơn mỗi đêm (tiểu đêm, đau nhức khớp, lên cơn hen suyễn...) và mỗi lần thức giấc như vậy phải mất một thời gian mới ngủ lại được và giấc ngủ sau ngủ lại là nông, chập chờn và có thể ngủ mơ, thậm chí ác mộng làm thức giấc.

Thật ra, với NCT sẽ có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giấc ngủ như thể trạng (gầy yếu, suy dinh dưỡng...), yếu tố thần kinh (hay lo lắng...), yếu tố tâm lý, yếu tố nội tiết (hoóc-môn) và mắc nhiều bệnh tật. Trong đó, hoóc-môn và bệnh tật đóng vai trò rất quan trọng ảnh hưởng đến giấc ngủ của NCT.

Năm 1958, các nhà khoa học đã phát hiện ra chất hoóc-môn Melatonin được tiết ra từ tuyến tùng trong não chính là cơ sở của giấc ngủ. Người ta gọi Melatonin là “hoóc-môn bóng đêm”, bởi vì Melatonin được kích thích khi có bóng đêm và bị ức chế khi có ánh sáng. Bình thường, lượng melatonin bắt đầu được sản sinh quanh thời điểm mặt trời lặn, tăng mạnh từ 2 - 4 giờ sáng (khi ngủ say nhất) rồi giảm dần khi ánh sáng ban ngày xuất hiện.Melatonin chính là nhạc trưởng thiết lập nhịp điệu của cơ thể, thiết lập đồng hồ sinh học trong não và điều hòa giấc ngủ tự nhiên của con người. Nhờ có Melatonin mà con người có giấc ngủ sảng khoái, êm đềm mà không bị mệt mỏi khi thức giấc. Khi con người càng về già những tế bào phụ trách giấc ngủ chuyên biệt ngày một mất đi khiến cho chúng ta không thể ngủ sâu được nữa.

Về già, những tế bào phụ trách giấc ngủ ngày một mất đi khiến cho không thể ngủ sâu được nữa

Với bệnh tật, đa số NCT càng ngày trí nhớ càng kém, các chức năng sinh lý ngày một giảm, trong đó có não bộ làm ảnh hưởng đến giấc ngủ. Nếu NCT mắc các bệnh về xương khớp (thoái hóa khớp, gút, cứng khớp…) hoặc bệnh thuộc đường tiêu hóa (viêm loét dạ dày, trào ngược dạ dày - thực quản, viêm đại tràng mạn tính hoặc bệnh trĩ…), hoặc bệnh về đường hô hấp (hen suyễn, giãn phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính…), hoặc bệnh tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến (NCT là nam giới) thường cơn bệnh xuất hiện về đêm. Đặc biệt là lúc chuyển mùa nóng sang lạnh, mưa nhiều, khô hanh, gió mùa tràn về, áp thấp nhiệt đới làm ảnh hưởng rất lớn đến giấc ngủ cho nên ngủ ít, ngủ không ngon giấc. Ngoài ra, ngủ ít còn có thể do NCT sử dụng một số thuốc (thuốc tây, thuốc nam, thuốc bắc, thuốc không rõ nguồn gốc) làm ảnh hưởng đến giấc ngủ.

Thiếu ngủ gây hại cho sức khỏe như thế nào?

Theo các nhà khoa học Anh, những người thường xuyên mất ngủ (ngủ ít hơn 5 tiếng trong một đêm) có nguy cơ cao huyết áp và các vấn đề tim mạch. Thiếu ngủ cũng làm tăng nguy cơ béo phì, đái tháo đường, trầm cảm, nghiện rượu, nghiện thuốc lá (ngủ ít càng muốn uống rượu hoặc hút thuốc lá), có thể gây đột quỵ trên NCT đã mang sẵn bệnh về tim mạch và tiềm ẩn nguy cơ tai nạn khi điều khiển các phương tiện giao thông. Mất ngủ trực tiếp ảnh hưởng đến các vùng của não bộ gây mất tập trung và rất dễ dẫn đến mất bình tĩnh, nóng nảy.

Tại sao thường ngủ ít?Tập thể dục nhẹ nhàng, đều đặn hàng ngày là việc làm hết sức cần thiết

Nên làm gì để ngủ nhiều hơn, ngon hơn?

Khi thiếu ngủ (ngủ ít) kéo dài, NCT nên đi khám bệnh để bác sĩ có hướng giúp điều chỉnh giấc ngủ, đôi khi chỉ là những lời khuyên mang tính khoa học chưa cần dùng đến thuốc. Mặt khác, khám bệnh sẽ giúp xác định nguyên nhân gây ngủ ít, đặc biệt là trạng thái tinh thần (căng thẳng thần kinh, stress...), bệnh mạn tính làm ảnh hưởng đến giấc ngủ, bác sĩ sẽ có hướng điều trị. Với NCT thiếu ngủ, chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp điều chỉnh giấc ngủ (hàng ngày nếu ăn ít quá, uống ít nước quá cũng làm giấc ngủ ít). NCT nên kiêng các chất kích thích như: rượu, bia, thuốc lá, thuốc lào, cà phê, trà đặc nhất là vào buổi chiều và buổi tối. Ngoài ra, NCT cần tập thể dục nhẹ nhàng đều đặn hàng ngày là việc làm hết sức cần thiết. Phòng ngủ của NCT nên luôn luôn sạch sẽ, thoáng mát, ánh sáng êm dịu, hạn chế người qua lại và ít tiếng ồn. Trong mỗi một gia đình có NCT nên tạo cho họ một không khí yên bình tránh để xảy ra các tác động xấu về tinh thần làm ảnh hưởng xấu đến giấc ngủ.

TTƯT.PGS.TS. BÙI KHẮC HẬU

Những đột phá được tạo ra trong phòng thí nghiệm

Từ vắc-xin đến các cuộc phẫu thuật cứu sống mạng người khỏi những căn bệnh nguy hiểm, thành tựu khoa học đã nâng tầm chất lượng trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe người dân. Đằng sau mỗi khám phá y học, nhiều ý tưởng đã diễn ra ở các phòng thí nghiệm...

Xương lợn

Các nhà khoa học tại Đại học Columbia, New York, Mỹ đã thành công trong việc tái tạo xương nhân tạo từ tế bào lợn mở ra hy vọng tái tạo xương trên cơ thể người. Tác giả nghiên cứu, TS. Gordana Vujak-Novakovic cùng đồng nghiệp xây dựng một bộ khung xương sống mà không cần sử dụng các yếu tố tăng trưởng thường được sử dụng để kích thích dạng tái sinh này.

Các nhà khoa học đã sử dụng hình ảnh 3D về khiếm khuyết xương hàm lợn, lập bản đồ cấu trúc xương. Các tế bào gốc của lợn được lấy từ một mẫu mở nhỏ và được sử dụng để hình thành xương bên trong bộ khung, chỉ mất 3 tuần để các mạch máu bên trong xương liền mạch và hòa nhập vào hệ thống tuần hoàn của lợn. Công nghệ này hiện đang được các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu và chuẩn bị cho các thử nghiệm lâm sàng để FDA chấp thuận.

Chi chuột

Các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts cho biết, họ đã phát triển được toàn bộ các bộ phận cơ thể chuột trong phòng thí nghiệm. Đây là dự án thành công đầu tiên trong việc tái tạo các bộ phận cơ thể chuột trên thế giới.

TS. Harold Ott, người đứng đầu Phòng thí nghiệm Cơ và Xương cùng đồng nghiệp lấy một bộ khung xương chi trước chuột đã chết và loại bỏ tất cả các tế bào của nó sau đó họ tái cấu trúc lại các tế bào cho phần chi chết, tiêm tế bào cơ và mạch máu cho “bộ khung” chi giả phát triển trong vòng 2 tuần và cuối cùng nó được kết nối với phần thân một con chuột còn sống.

Kết quả là máu từ con chuột sống bắt đầu tuần hoàn qua các mạch máu của chi giả - dấu hiệu cho tương lai chi sinh học nhân tạo phục vụ con người.

Tai được làm ra từ... táo.

Tai được làm ra từ... táo.

Tinh trùng chuột

Các nhà khoa học thuộc Đại học Muenster, Đức và Ben Gurion, Israel lần đầu tiên nuôi cấy thành công tinh trùng chuột trong phòng thí nghiệm từ các tế vào mầm – tế bào trong tinh hoàn của chuột đực. Nghiên cứu đột phá này mở ra hy vọng cho những người đàn ông bị vô sinh. Các nhà khoa học đang ứng dụng quy trình thí nghiệm với các tế bào mầm trong tinh hoàn đàn ông nhưng chưa thành công, mặc dù vậy TS. Mahmoud Huleihel cho biết, để thành công khi ứng dụng trên người phải mất nhiều thời gian nghiên cứu hơn nữa.

Tai người từ táo

Các nhà nghiên cứu ở Đại học Ottawa, Canada đã thành công trong việc sử dụng cellulose trực tiếp từ táo đã qua xử lý để nuôi cấy thành công tai người. Khi nuôi cấy tai trên khung, các tế bào liên kết với nhau, phát tín hiệu đến nguồn cung cấp máu và trở thành một phần của cơ thể. Quá trình thử nghiệm của TS. Pelling cùng cộng sự rất đơn giản.

Bước đầu, nhóm ngâm quả táo trong nước sôi và dung dịch xà phòng để loại bỏ chất tế bào của quả táo. Kết quả rất khả quan khi các tế bào của quả táo đã mở ra. Sau đó, táo được rửa sạch và loại bỏ chất tế bào, chỉ còn lại thành phần cellulose hình rỗng giống như cấu trúc khung xương của quả táo. Những khoảng rỗng nằm bên trong thành cellulose sẽ được lấp đầy bằng tế bào của người và sẽ tiếp tục phát triển.

Dương vật thỏ

GS. Anthony Atala, Giám đốc Viện Y học tái sinh cho biết, từ năm 2008, nhóm của ông đã thành công trong việc tạo ra dương vật thỏ. 8 con thỏ trong thí nghiệm này có thể xuất tinh thành công và 4 con thỏ có con. Để làm được việc này họ đã lấy những tế bào nội mô đem nuôi cấy trong phòng thí nghiệm. Chất này được dùng để thay thế mô dương vật bình thường của thỏ. Kết quả cho thấy không có hiện tượng thải ghép.

m đạo người

GS. Anthony Atala và các đồng nghiệp cũng phát triển thành công âm đạo nữ giới trong phòng thí nghiệm. Những âm đạo này được cấy ghép vào 4 nữ giới ở Mexico mắc phải một rối loạn hiếm gặp khiến họ sinh ra không có âm đạo. Để tạo ra âm đạo này, các nhà nghiên cứu đã lấy mẫu mô từ 4 người tham gia thí nghiệm, sau đó tạo ra một bộ khung, tiếp tục tiêm vào đó tế bào phát triển từ mẫu mô. Cuộc cấy ghép đầu tiên diễn ra năm 2005. Quá trình theo dõi không phát hiện thấy có biến chứng nào. Tất cả 4 người phụ nữ này đều hoạt động tình dục bình thường.

Minh Huệ

((Theo LS, 2017))

Làm gì khi đau mỏi ở cổ?

Xin hỏi bác sĩ em phải làm gì để khỏi bệnh?

Nguyễn Văn Đông(nguyendong92@gmail.com)

Đau mỏi ở cổ là biểu hiện thường gặp, đặc biệt ở những người ngồi lâu một tư thế khiến các cơ vùng cổ và bả vai bị co gây đau mỏi liên tục... Tuy nhiên, lại có những tiếng kêu rắc là dấu hiệu cho thấy sụn khớp bị viêm hoặc đã thoái hóa. Sụn khớp là các cấu trúc che phủ bề mặt của xương, có tác dụng bảo vệ và đóng vai trò như miếng đệm giữa các xương. Nếu sụn bị thoái hóa, nó tạo ra một bề mặt thô ráp, thậm chí khiến các phần của xương bị lộ ra. Khi các bộ phận này tiếp xúc, chà xát với nhau, âm thanh phát ra chính là dấu hiệu của viêm khớp. Đây không phải vấn đề thường gặp nhưng nếu bạn cảm thấy đau, đặc biệt là cơn đau lan xuống một cánh tay thì rất có thể đó là do tác động của hệ thần kinh. Lúc này, hệ thống thần kinh có thể bị chèn ép hoặc bị tổn thương. Ngoài các triệu chứng phát ra tiếng kêu như vậy, người bệnh còn có thể thấy xuất hiện các dấu hiệu kèm theo như: tê, ngứa ran ở tay, bàn tay hoặc ngón tay. Trường hợp này bạn nên đi khám chuyên khoa xương khớp càng sớm càng tốt. Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị như xoa bóp, bấm huyệt, tập luyện hay lý liệu pháp đều có kết quả tốt. Điều quan trọng là không nên xoay đầu liên tục sẽ làm tổn thương đốt sống cổ nhiều hơn. Nếu làm việc văn phòng khoảng 45-60 phút nên đứng dậy đi lại và thư giãn cho đỡ mệt mỏi. Hằng ngày cần ăn uống đủ chất và dành thời gian tập luyện thể dục thể thao. Đặc biệt một số động tác yoga sẽ giúp giảm đau mỏi cho vùng cổ rất nhiều.

BS. Vũ Hồng Ngọc

Tìm ra loại protein có thể làm giảm sự lây lan ung thư

Tìm ra loại protein có thể làm giảm sự lây lan ung thư

Nghiên cứu này được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu từ ĐH Guelph, Ontario đã xác định được loại protein cadherin-22, một yêu tố tiềm ẩn gây di căn hoặc lây lan ung thư. Loại protein này cũng làm giảm 90% tỷ lệ bám dính và xâm lấn của các tế bào ung thư vú và ung thư não.

Tác giả chính của nghiên cứu GS Jim Uniacke cho biết: “Cadherin-22 có thể là một chỉ dấu tiên lượng hiệu quả về các giai đoạn ung thư tiến triển và kết quả của bệnh nhân. Nếu bạn có thể tìm ra một phương pháp điều trị hoặc loại thuốc có thể ức chế cadherin-22, bạn có thể ngăn ngừa các tế bào ung thư di chuyển, xâm lấn và di căn.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng chính trong các điều kiện khí oxy thấp các tế bào ung thư sẽ kích hoạt sản xuất cadherin-22 làm tăng một loại protein giúp gắn kết các tế bào với nhau, tăng cường chuyển động tế bào, xâm lấn và di căn. Nghiên cứu tế bào ung thư vú và não trong môi trường khí oxy thấp, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng cadherin-22 có liên quan tới quá trình lây lan của các tế bào ung thư. Đối với cả hai loại ung thư, nhóm nghiên cứu sử dụng các công cụ phân tử để giảm lượng cadherin-22.

Họ đã đặt các tế bào ung thư của người vào lồng ấp và làm giảm oxy đến mức tương đương với trong một khối u. Các tế bào không lây lan được.

BS Thu Vân

(theo Univadis/THS)

Phòng ngừa nhồi máu cơ tim tái phát

Nhồi máu cơ tim (NMCT) là một bệnh lý tim mạch nguy hiểm thường xảy ra khi một vùng cơ tim bị tổn thương, hoại tử do các động mạch vành bị tắc nghẽn làm ngưng đột ngột sự cung cấp máu đến nuôi cơ tim. Những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị NMCT cấp hiện nay là điều trị can thiệp động mạch vành (với hút huyết khối, nong bóng, đặt stent); tiêu sợi huyết hoặc mổ mở cấp cứu và điều trị nội khoa. Tuy nhiên, sau những nỗ lực cứu sống này, người bệnh cần tuân thủ một chế độ điều trị nghiêm ngặt để phòng ngừa tái phát NMCT.

Cục máu đông làm tắc mạch vành.

Cục máu đông làm tắc mạch vành.

Dùng thuốc điều trị tại nhà

Phòng ngừa tái phát của NMCT, sau NMCT ra viện, người bệnh cần tiếp tục điều trị. Các thuốc được sử dụng trong điều trị NMCT giúp nhanh chóng khôi phục lưu thông máu ở động mạch vành, giảm đau... Người bệnh cần tuân thủ theo dõi và dùng thuốc theo chỉ định của các bác sĩ để ngăn ngừa các biến cố có thể xảy ra.

Để giảm khả năng tạo huyết khối, ngăn ngừa tái phát NMCT hiện nay bệnh nhân sẽ duy trì một loại thuốc chống ngưng tập tiểu cầu trọn đời, thường là aspirin. Đã có nhiều trường hợp tái nhập viện do tình trạng đau ngực và được chẩn đoán là hẹp hoặc tắc lại trong stent mà nguyên nhân hay gặp nhất chính là bệnh nhân không tuân thủ điều trị.

Để giảm tỷ lệ tử vong, giảm tái cấu trúc cơ tim sau nhồi máu, điều trị suy tim, thuốc ức chế men chuyển hoặc thuốc chẹn thụ thể sẽ được các thầy thuốc căn chỉnh liều để đạt hiệu quả cao nhất cho bệnh nhân và được dùng kéo dài sau NMCT.

Để giảm biến cố rối loạn nhịp, điều trị suy tim, giảm tỷ lệ tử vong, thuốc chẹn beta giao cảm cũng được dùng kéo dài và người bệnh cần phải khám lại thường xuyên để thầy thuốc điều chỉnh liều tốt nhất cho bệnh nhân.

Nhóm thuốc statin có vai trò quan trọng trong bảo vệ tim mạch với khả năng chống viêm thành mạch, ổn định mảng xơ vữa, điều trị rối loạn mỡ máu. Thuốc lợi tiểu cải thiện chuyển hóa tế bào cơ tim...

Như vậy, đối với bệnh nhân sau NMCT, việc dùng thuốc là bắt buộc. Bên cạnh đó, các mạch máu và mô tim phụ thuộc rất nhiều vào chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt và tập luyện.

Ăn kiêng sau NMCT

Người bệnh cần thực hiện một chế độ ăn kiêng. Không sử dụng các loại mỡ động vật trong khẩu phần ăn. Sử dụng dầu ăn thực vật (tốt hơn cả là dầu oliu). Chất béo nói chung không quá 30% khẩu phần ăn. Loại bỏ hoàn toàn các loại bơ khi nấu nướng. Tránh các món ăn có chứa lượng cholesterol. Giảm sử dụng muối và các axit béo.

Bổ sung vào chế độ ăn các thực phẩm hải sản như cá, tôm, sò biển... Tăng sử dụng rau xanh, các chất xơ, hoa quả tươi. Có thể ăn các loại cháo loãng và cháo hầm. Sử dụng đồ ăn nhẹ tương tự như các sản phẩm từ sữa chua, các món canh (súp) dễ ăn và nước rau củ nghiền, luộc hấp. Kiêng các món ăn chiên, rán và mỡ. Cần lưu ý đến giới tính của bệnh nhân. Nữ giới cần giảm chỉ số đường huyết, còn nam giới giảm chỉ số cholesterol máu. Chế độ ăn khi bị NMCT cần hạn chế hoặc loại bỏ hoàn toàn các sản phẩm lúa mạch và các món ăn có chứa đường và mỡ. Thực hiện một chế độ dinh dưỡng đúng và ăn kiêng không chỉ giúp giảm cân mà còn giảm chỉ số cholesterol trong máu.

Sinh hoạt và tập luyện sau NMCT

Để phòng ngừa tái phát NMCT, trách nhiệm của bản thân người bệnh là theo dõi cân nặng, ngừa thừa cân, béo phì, bỏ hút thuốc lá nếu có... Đồng thời phải kiểm soát huyết áp dưới 140/90mmHg, dưới 130/80mmHg ở bệnh nhân đái tháo đường hay bệnh thận mạn tính.

Thực hiện nếp sống năng hoạt động thường ngày như chăm sóc cây, làm việc nhà, sử dụng cầu thang bộ, đi xe đạp xen kẽ vào thời gian làm việc... Dần dần, từng bước luyện tập trở lại với công việc đời thường. Duy trì và lựa chọn một bài thể dục tự chọn phù hợp tùy từng thể bệnh nặng hay nhẹ (đi bộ, chạy chậm, đi xe đạp). Mỗi ngày tập luyện khoảng 30-60 phút. Dựa vào ý kiến của thầy thuốc khi làm nghiệm pháp điện tâm đồ gắng sức, bản thân người bệnh cũng tự “lắng nghe cơ thể mình”, tập ở mức độ nào mà cơ thể thấy dễ chịu và sau tập khoảng 5 phút thấy huyết áp và mạch trở lại như trước khi tập là đạt yêu cầu. Không lạm dụng thể dục thể thao vì không phải càng tập nhiều càng chóng khỏi bệnh.

Lời khuyên của thầy thuốcĐiều lưu ý là người bệnh cần dũng cảm đối mặt sống chung với trái tim có NMCT bằng tâm lý an nhiên, thanh thản. Dự phòng, ngăn ngừa NMCT tái phát phụ thuộc rất nhiều ở nghị lực, tâm lý lạc quan và sự hiểu biết của người bệnh. Tuân thủ điều trị và khám bệnh định kỳ để đạt hiệu quả điều trị tốt nhất. Khi có các triệu chứng tái phát, bệnh nhân ngậm 1 viên nitroglycerin dưới lưỡi và gọi xe cấp cứu đến bệnh viện ngay.

TS. Tạ Tiến Phước